giọng tốt thuộc bài bản là có thể hát hò được. Trái lại, điệu hát hò khoan mây và sương khói trên sông. Lời hò thường uyển chuyển, láy đi láy lại, khoan thai mà: em nằm tấm tức l nhỏ tuôn rơi. Văn hóa với mơi trường sơng nước Việt Nam 08QK4 21 Vì ai mà mang
+ Sưu tầm và ghi lại ít nhất 02 bài thơ viết về sông Hương + Tìm xem đoạn video clip về sông Hương, núi Ngự và xứ Huế. Viết cảm nhận sau khi xem video clip-HS thực hiện nhiệm vụ: - HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ: + Ví dụ: Tiếng hát sông Hương- Tố Hữu
Lời bài bác hát hết sức sôi động: "Cho bao nhiêu bước đi đêm ni rung lên dịu nhàng. Cho bao nhiêu đắm say đêm nay mong mỏi manh đừng đổ vỡ tan,…" Là ca khúc được nhiều người trẻ thích thú và hầu như ai ai cũng biết lời bài xích hát bởi nó thừa nổi. 9. Ca khúc tình nghèo gồm nhau
Hò chèo ghe, hò mái đoản, hò mái trường, mái nhất, mái nhì…cùng điệu buồn phương Nam qua bàn tay những nghệ sĩ dân gian khảy trên các phím đàn. Âm điệu da diết thấm đẫm hồn sông nước nghe man mác, mênh mang diệu vợi, một chút cảm hoài xa vắng, khó quên.
Tiếng hò sông Hậu (vai bà tư Hậu) Tình mẫu tử (vai bà Trương) Tình tráng sĩ (vai cô lái đò) Thuyền ra cửa biển (vai Chiêu Trúc Lệ) Thái hậu Dương Vân Nga (vai Dương Vân Nga) Tuyệt tình ca (vai bà Lan) Bức thư chiều 29 Tết; Biết trả lời sao (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: Mai
lcWdBU. Ca khúc Cải lương sân khấu Tiếng hò sông Hậu Chí Linh, Vân Hà do nghệ sĩ thể hiện, thuộc thể loại Sân khấu cải lương. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát Cải lương sân khấu Tiếng hò sông Hậu Chí Linh, Vân Hà mp3, playlist/album, MV/Video Cải lương sân khấu Tiếng hò sông Hậu Chí Linh, Vân Hà miễn phí tại bài hát Cải lương sân khấu Tiếng hò sông Hậu Chí Linh, Vân HàCải lương sân khấu Tiếng hò sông Hậu Chí Linh, Vân Hà -“Cải lương” là “một loại hình nghệ thuật nổi tiếng” có lịch sử lâu đời. Những tác phẩm đặc sắc ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng mãi cho đến ngày hôm một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dòng nhạc Đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long, nhạc tế gốc hình thành?Chữ “cải lương” 改良 theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho rằng cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn”, thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài đây là đã cải lương cải cách, đổi mới nghệ thuật hát bội. Từ một động từ theo nghĩa thông thường đã trở thành một danh từ riêng. Sau khi cải lương thì bộ môn nghệ này đã khác hẳn với nghệ thuật hát bội cả về nội dung và hình Vương Hồng Sển tuy “có người cho rằng cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918″, nhưng theo ông thì kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà Hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới “bành trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách nên nó hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ.“Vở cải lương “Tiếng hò sông Hậu” của soạn giả Điêu Huyền, người mộ điệu cải lương nghĩ ngay đến không gian đồng quê Nam bộ được tái hiện sinh động Gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng câu chuyện kịch tính, nhân vật điển hình,với những tá điền cực khổ, cơm không đủ no, bị địa chủ, thực dân áp bức. Hội đồng Dư độc ác,cô Ba Phượng tàn nhẫn hay thím Tư Hậu, anh Thừa hiền lành, chơn chất…”
Vị soạn giả sinh ra và lớn lên ở làng Nhơn Nghĩa đất Cần Thơ đã sáng tạo nên những vở diễn kinh điển. Tài hoa Chân dung soạn giả Điêu Huyền được thờ tại nhà ông Năm Thạnh. Ảnh DUY KHÔI chụp lại Ông Phạm Hưng Thạnh tự Năm Thạnh, năm nay đã 79 tuổi, cháu gọi cố soạn giả Điêu Huyền bằng chú Chín, hiện đang sống trên phần đất xưa của soạn giả tài danh. Ông Năm Thạnh cẩn thận lật từng trang cuốn “Truy nguyên thân tộc họ Phạm” viết bằng tay đã nhuốm màu thời gian. Đó là tâm huyết lúc còn sống của soạn giả Điêu Huyền để con cháu “nhận tổ quy tông”. Ông Năm Thạnh còn giới thiệu những bài điếu văn của các văn nghệ sĩ, lời tâm tình của học trò trong đám tang soạn giả. Từ những tư liệu ấy cùng với lời kể của ông Năm Thạnh, hình ảnh một soạn giả tài danh của sân khấu cải lương dần được khắc họa đậm nét. Soạn giả Điêu Huyền tên thật là Phạm Văn Điều, sinh năm 1915, tại làng Nhơn Nghĩa thuộc xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ ngày nay. Ông là người con thứ 9 trong một gia đình có 11 anh em. Tình yêu đờn ca hình thành từ lúc ông Chín Điều theo các anh của mình tham gia Ban Đờn ca tài tử Ái Nghĩa tên ghép của hai làng Nhơn Ái và Nhơn Nghĩa - ban đờn ca sớm nhất ở Cần Thơ. Thời điểm học ở Trường Collège de Cantho hiện nay là trường THPT Châu Văn Liêm, ông từng được học bổng và kết thân với nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Hai cậu học trò - người đàn măng-đôlin, người đàn tranh - gắn bó với nhau bằng tình yêu âm nhạc. Cuối năm 1945, sau thời gian bôn ba ở Sài Gòn, Sóc Trăng, soạn giả Điêu Huyền về ngôi nhà ở gần Vàm Xáng, Nhơn Nghĩa, vừa tham gia kháng chiến, vừa soạn những vở tuồng nhỏ, quy tập thiếu nhi và dân địa phương diễn lại để hướng dẫn trình diễn. Nổi bật trong đó là tuồng “Thiếu nhi thời loạn”, “Giọt máu Lạc Hồng”… với nội dung tuyên truyền cách mạng. Năm 1952, soạn giả Điêu Huyền là một trong những người góp công lớn thành lập Đoàn Cải lương Lam Sơn - đoàn cải lương đầu tiên của Cần Thơ và làm trưởng đoàn. Thời kỳ này, ông sáng tác vở “Mười năm gian khổ” tức “Chén cháo Chí Linh” vang danh khắp vùng. Tài hoa của ông được thể hiện rõ khi ông là người viết tuồng, dàn dựng kiêm tạo tác cảnh trí cho vở diễn này. Tên tuổi ông cũng vang xa từ đó. Các vở diễn của ông thu hút bởi ngôn từ vừa dân dã vừa mượt mà, ý vị. Tài hoa ấy thể hiện rõ từ tựa các vở tuồng “Khách sạn Hào Hoa”, “Tìm lại cuộc đời” viết chung, “Tiếng hò sông Hậu”… Trong “Tiếng hò sông Hậu”, ước mơ bình dị của Chơn - Lài trong thời buổi gian khổ lại được soạn giả thể hiện đẹp như thơ “Lợp lại mái nhà dột nát, làm đám cưới thật đơn sơ, mua một cái mùng vải ta, sắm cho má một cái áo xuyến bà ba, mua một cặp gối tai bèo để thêu hai con thỏ ăn củ cải đỏ…”. Có thể nói rằng, những tác phẩm của soạn giả Điêu Huyền đi sâu vào lòng biết bao thế hệ người mộ điệu là bởi mỗi nhân vật, dù là tuyến phụ, cũng được khắc hóa tính cách rất độc đáo. Những nhân vật chuyên bợ đỡ, “nịnh trên, nạt dưới”, hay tàn độc do Điêu Huyền “nhào nặn” như Đại úy Gian Thành Giảo trong “Tìm lại cuộc đời”, “Bùng Binh Biền” trong “Khách sạn Hào Hoa” hay Hội đồng Dư, cặp rằng Lựu, Hương quản Lê trong “Tiếng hò sông Hậu” đã trở thành những nhân vật hình mẫu về nghệ thuật trên sân khấu cải lương. Trọn đời nghĩa nhân Trong “Nghệ sĩ Bạch Tuyết - Cải lương chi bảo” NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2002, NSND Bạch Tuyết - dưỡng nữ của soạn giả Điêu Huyền đã nhận xét “Hầu hết tác phẩm của ông đều mang tư tưởng “chở đạo” của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu”. Thật vậy, xem các vở cải lương của cố soạn giả Điêu Huyền, người xem cảm nhận được sự đồng cảm, sẻ chia và ngậm ngùi với nỗi đau của từng nhân vật. Những câu thoại nói mà như khóc trong “Tiếng hò sông Hậu” phần nào nói lên điều đó “Quần bố áo tơi qua cơn gió bấc, mưa dầm. Bao bàng rách nát, chiếu lác vạt tre, thí thân trần với muỗi về đêm như trấu vãi…”. Bởi thế, kết thúc mỗi vở tuồng của soạn giả Điêu Huyền đều chuyển tải thông điệp Ở hiền sẽ gặp lành. Soạn giả Điêu Huyền đứng thứ hai, từ trái sang chụp ảnh lưu niệm với các anh chị em trong gia đình. Ảnh DUY KHÔI chụp lại Con cháu và những người quen biết với soạn giả Điêu Huyền cho biết nhân vật thầy Ba Năng trong vở “Tiếng hò sông Hậu” phảng phất hình ảnh của cố soạn giả Điêu Huyền. Năm 1935, soạn giả Điêu Huyền lập gia đình với bà Cần - con Huyện Thọ ở Long Phú, Sóc Trăng. Làm rể địa chủ, soạn giả Điêu Huyền từng 2 lần được cha vợ giao trông coi phần đất ở Mỹ Xuyên. Tại đây, ông có dịp lân la kết thân với những tá điền cực khổ, cơm không đủ no, bị địa chủ, thực dân áp bức. Nhận thấy công việc ấy không thích hợp với mình nên chỉ 2-3 năm sau, ông dẫn vợ con về làng Nhơn Nghĩa sống đời thanh bần. Đó cũng là vốn liếng để soạn giả Điêu Huyền cảm tác “Tiếng hò sông Hậu”. Là người từng gắn bó và có nhiều kỷ niệm với soạn giả Điêu Huyền, ông Năm Thạnh ấn tượng “Chú Chín rất chịu khó học hỏi, cầu thị và khiêm tốn”. Ông Năm kể câu chuyện cách đây vài chục năm, có cô gái đến xin soạn giả học cải lương. Soạn giả Điêu Huyền hỏi “Vì sao cô muốn học và cô đã biết gì về cải lương”. Vậy là soạn giả miệt mài nghe cô gái trình bày, gật gù như kiểu “học trò nghe thầy giảng bài” - theo lời ông Năm Thạnh. Thói quen của ông khi suy nghĩ điều gì là vân vê 10 đầu ngón tay và gỡ phao tay. Có khi viết xong một vở cải lương, 10 đầu ngón tay ông đều rướm máu. Dù là một soạn giả bậc thầy thời bấy giờ nhưng khi viết xong một vở cải lương, ông đều nhờ mọi người góp ý, bất kể là người trong nghề hay anh em, con cháu. Khoảng cuối năm 1979, theo sự gợi ý của ông Năm Thạnh, soạn giả Điêu Huyền viết vở “Nắng lên Chùa Tháp” với bối cảnh cuộc chiến chống quân Pôn-pốt và mời ông Năm làm cố vấn quân sự. Mỗi lần ông Năm Thạnh lên TP Hồ Chí Minh thăm là soạn giả Điêu Huyền lại bắt ông thức sáng đêm để cùng ông sáng tác. Bên cạnh giường ngủ của soạn giả Điêu Huyền luôn có chiếc bàn với cây đèn nhỏ, xấp giấy, cây viết. Nửa đêm chợt giấc, nảy ra ý tưởng, soạn giả lại bật dậy viết ngay. Có lẽ, trong số những soạn giả tên tuổi, soạn giả Điêu Huyền là người có nhiều con nuôi nhất. Các nghệ sĩ thời Bạch Tuyết, Diệp Lang, Út Bạch Lan, Ánh Hồng, Giang Châu… đều kính trọng gọi ông là Ba Chín, thầy Điêu Huyền. Soạn giả Điêu Huyền cũng là người “mài ngọc”, vén màn nhung cho biết bao nghệ sĩ tài danh. Ông tận tình hướng dẫn, dìu dắt, nắn nót cho họ từng động tác diễn, lời ca. NSND Bạch Tuyết xúc động khi nhắc về ông “Ba nuôi lo cho tôi từng chút một, từ chỗ ăn, ngủ, giờ giấc tập tuồng, tiền lương bao nhiêu…” “Nghệ sĩ Bạch Tuyết - Cải lương chi bảo”. * * * Đọc những dòng chữ nắn nót của soạn giả Điêu Huyền trong cuốn “Truy nguyên thân tộc họ Phạm”, ai cũng dễ cảm nhận được tấm lòng trân quý của ông với thân tộc, quê hương. Trong lời nói đầu, soạn giả Điêu Huyền viết rằng “Hai chữ “bà con” tuy đơn giản mà quý hóa lắm. Nói đến bà con là nhắc nhau đến đồng chung nguồn cội ông bà, dù qua nhiều đời đã lạc họ… Thờ ơ với tình cảm đẹp này sẽ gây hối tiếc về sau cho con cháu”. Ông Năm Thạnh kể, mỗi lần về thăm quê, ông Chín lần lượt thăm hỏi từng người, từ bà con, lối xóm đến những người trong ban văn nghệ xưa do ông thành lập. Ông Năm còn giới thiệu với tôi mô hình ngôi nhà làm bằng giấy do chính tay soạn giả làm thời còn ở quê nhà. Ông Năm Thạnh nhận xét “Giống không thể tưởng! Từ dàn cưa trước cửa đến chuồng bồ câu, buồng chuối chín đều được Chú Chín thể hiện giống hệt căn nhà ông đã ở”. Hàng cau, ngôi nhà hình chữ đinh, chiếc lu đựng nước trước nhà… được soạn giả Điêu Huyền thể hiện bằng giấy tuyệt đẹp. Ngày 12-11-1983 nhằm mồng 8 tháng 10 âm lịch, soạn giả Điêu Huyền qua đời sau cơn đột quỵ. Trọn một đời gắn bó với nghệ thuật, sáng tác gần 40 vở tuồng và cộng tác với 16 đoàn cải lương, soạn giả Điêu Huyền đã góp phần làm cho sân khấu cải lương thêm rực rỡ, như cách nói của dưỡng nữ Bạch Tuyết “Một trong những người đã trao cho chúng ta chiếc chìa khóa bằng vàng để mỗi người tự mở cho mình những cánh cửa lớn, bước vào thánh đường thiêng liêng của nghệ thuật sân khấu”. __________ Tài liệu tham khảo - “Truy nguyên thân tộc họ Phạm” của soạn giả Điêu Huyền bản viết tay. - “Nghệ sĩ Bạch Tuyết - cải lương chi bảo” NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2002
Ca khúc Cải lương Tiếng hò Sông Hậu – Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan do nghệ sĩ thể hiện, thuộc thể loại Cải lương xưa trước 1975. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát Cải lương Tiếng hò Sông Hậu – Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan mp3, playlist/album, MV/Video Cải lương Tiếng hò Sông Hậu – Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan miễn phí tại bài hát Cải lương Tiếng hò Sông Hậu – Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch LanCải lương Tiếng hò Sông Hậu – Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan -Cải lương Tiếng hò Sông Hậu Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan. Vở Cải lương Tiếng hò Sông Hậu với sự tham gia của các nghệ sĩ cải lương Trọng Hữu, Giang Châu, Út Bạch Lan, Diệp Lang, Tài Linh, Linh Tâm…Vở cải lương “Tiếng hò sông Hậu” của soạn giả Điêu Huyền, người mộ điệu cải lương nghĩ ngay đến không gian đồng quê Nam bộ được tái hiện sinh động Gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng câu chuyện kịch tính, nhân vật điển hình,với những tá điền cực khổ, cơm không đủ no, bị địa chủ, thực dân áp bức. Hội đồng Dư độc ác,cô Ba Phượng tàn nhẫn hay thiếm Tư Hậu, anh Thừa hiền lành, chơn chất .
lời bài hát tiếng hò sông hậu